A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Thần đâu dám tiếc cái chết!

Thân Văn Nhiếp (1804 - 1872), tự là Ngưng Chi, hiệu là Lỗ Đình, quê ở làng An Lỗ, sau dời về làng Nguyệt Biểu huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế; đỗ Giải nguyên khoa Tân Sửu đời Thiệu Trị (năm 1841), trải nhiều chức quan. Ông là vị quan thanh liêm, cương trực, nhiều lần dâng sớ lên vua Tự Đức can ngăn nhiều việc, bất chấp có thể bị họa trước quyền sinh quyền sát của nhà vua, có ba lần can đáng lưu ý.

Lần thứ nhất, vào tháng  Sáu năm Nhâm Tý (tháng 7 - 1852), khi đang là Án sát tỉnh Bình Định, Thân Văn Nhiếp dâng sớ tâu bày về vua Tự Đức lo ăn chơi, bê trễ chính sự, qua việc làm nhà Thủy tạ. Ông vạch rõ: “Hóng mát ở nhà Thủy tạ, tiếng là tiêu khiển tạm thời mà lưu lại đến 10 ngày. Chạy ngựa ở vườn sau, tiếng là học võ mà thực chất là dong ruổi vui chơi. Gỗ cây hết, đặt giá mua của dân thì với giá hạ, dân càng tỏ ra quẫn bách… Gần đây lại mua hàng hóa của nước Thanh (Trung Quốc), hàng năm kể đến bạc vạn, hỏi han đồ châu báu khắp các tỉnh”. Từ đó, Thân Văn Nhiếp xin vua “Triệt nhà Thủy tạ, hủy vườn hậu phố, chẳng cần ngựa hay, bỏ việc đặt giá mua để giảm sự đau khổ cho dân, xua con hát để tăng nghe lời đoan chính”. Ông cũng chỉ cho nhà vua thấy được tình thế nguy nan của đất nước là “Bờ cõi cũ chìm mất, giặc Bắc tràn lan, nắng lụt gió bão, chỗ nào cũng có tai biến, sức kiệt của hết, dân không lấy gì mà sống được; lòng người ở nơi gần kinh kỳ náo động, loạn lạc nổi lên, cái thế an nguy thật không chỉ trăm mối lo”, để vua hối tỉnh. Ông cũng mong vua “Các lời can gián của bầy tôi, điều gì có thể dùng được thì dùng, điều gì không dùng được thì để dấy, cầu trời ở trời, không bằng cầu ở lòng mình”.

Tất nhiên, các lời trên đây đều “không lọt tai” Tự Đức, nhưng vua không bắt tội Thân Văn Nhiếp.

Trong các năm 1866-1868, đất nước chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc xâm chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ của thực dân Pháp, triều đình vừa mất đất, vừa phải “bồi thường chiến tranh”, gánh nặng đổ lên đầu người dân; các toán giặc cỏ nhà Thanh xâm lấn biên cương phía Bắc; thiên tai liên tiếp xảy ra khắp các địa phương, gây mất mùa, đói kém. Trong khi đó, nhà vua lại lo mua sắm đồ ngoại để tiêu dùng, lo du ngoạn, đặc biệt là việc xây Vạn Niên cơ - là tác nhân quan trọng dẫn đến cuộc khởi nghĩa của Đoàn Trưng và Đoàn Trực (năm 1866).  

Trước tình hình đó, tháng Mười năm Bình Ngọ (tháng 11- 1866), khi đang là Hộ lý Tổng đốc Bình - Phú, Thân Văn Nhiếp dâng sớ lên vua. Mở đầu tờ sớ, ông chỉ rõ tình thế nguy nan của đất nước “Bên trong thì lụt hạn, tật dịch, dân sống khổ sở; bên ngoài thì Nam, Bắc rối loạn, đền tiền, cắt đất” … Từ đó, ông xin vua “để ý sửa sang, ngự trên cung khuyết chín tầng tôn quý mà nghĩ đến nhà của dân Nam Kỳ bị đốt phá; xem lầu gác đẹp ở lăng tẩm thì nghĩ đến mồ mả, gò đống ở Nam Kỳ; tiến các thứ ngọc thực vua dùng thì nghĩ đến thổ sản ở Nam Kỳ còn gì; vỗ yên dân điêu tàn ở nơi kinh kỳ thì nghĩ đến dân Nam Kỳ ai thương?”. Tiếp đó, Thân Văn Nhiếp xin vua “bỏ sự xa xỉ, chuộng sự cần kiệm, bỏ việc sai người sang Quảng Đông, sang Tây, triệu những viên đi mua hàng hóa trở về, thuyền máy rút về cửa biển Thuận An để đi tuần tiễu; quân lính cho làm việc vừa sức…; lần lượt thay đổi khiến cho được tốt, nhân tình thỏa mãn thì lòng người cảm mộ, lòng trời sẽ giúp theo, gốc nước sẽ vững bền, chính như câu nói “gặp nhiều hoạn nạn thì nước hưng vượng, gặp lo nghĩ nhiều thì mở trí khôn, nếu coi là việc tầm thường thì sự lo ngại về sau e chưa thể hết được”.

Vua Tự Đức đọc tờ sớ, nói rằng: “Lời nói giản dị mà thiết tha” và mong triều thần “xét kỹ cùng biết, việc gì nên làm, có thể gọi là việc cốt yếu về tự cường, tự trị, mong đem lại khí hòa, cho được bày tỏ, để giúp chỗ trẫm không nghĩ tới, để giúp nước mà thôi”.

Tháng Bảy năm Mậu Thìn (tháng 8-1868), vẫn trên cương vị quan đầu tỉnh Bình - Phú, Thân Văn Nhiếp lại dâng lời can vua, mở đầu bằng đoạn: “Xưa, việc sửa sang triều chính, nếu chăm lo thì thường thấy nguy, nếu vui chơi thì thường thấy yên, thấy nguy là gốc của thịnh trị, thấy yên là mầm của tai họa. Thế sự yên nguy, còn mất khác nhau chỉ ở chỗ vua một lòng kính cẩn hay là phóng túng mà thôi. Nay đất cũ bị mất, giặc phương Bắc tràn lan; lụt hạn, bão lũ cấp cáo khắp nơi; của hết sức kiệt; dân không được nhờ để sống; lòng người ở nơi kinh kỳ náo động, các nơi làm loạn, cái thế yên nguy không chỉ trăm mối lo. Thế mà gần đây, lại xây dựng, sửa sang liên tiếp, xa xỉ bừa bãi không ngừng: Làm Vạn Niên cơ gấp 10 lần so với lăng Thiên Thụ; lại thêm mua sắm các đồ từ nước ngoài, nào sa tanh, tủ rượu của nước Thanh, nào đàn Tây, tranh Tây; lại còn thường đi chơi, đem theo cung nữ chèo thuyền. Những việc từ trước chưa thấy bao giờ thì 4-5 năm nay luôn thấy. Nay lại lầu trong cung vừa mới dựng xong, lầu ở bãi sông xây tiếp, đang lúc hạn hán, gạo đắt, tốn phí chẳng ít. Tiếp đó, Thân Văn Nhiếp chỉ rõ “Hoàng thượng ngày thường vẫn mong bắt chước như Văn đế, thế mà hiện nay hành động lại trái ngược: Lấy sự khổ nhọc của dân để làm vui, lấy việc vung tiền của để làm thích, cốt hơn phép trước mà khoe đẹp về sau; muốn chơi xem nhiều như thế để hưởng hết tuổi trời; làm cho lòng người oán hận, đường sá xôn xao, hầu không thể cứu được. Thần sợ lòng người tan rã, đến lúc đó thì có gác cao, lầu  đẹp, còn thì giờ đâu mà du ngoạn được. Hoàng thượng có nước mà không biết tiếc thì thần đâu dám tiếc chết, đã nhiều lần tâu nói mà chưa được sửa đổi. Nay lại xúc phạm những điều kiêng kỵ, dám xin tội chết”.

          Vua Tự Đức đọc tờ tâu của Thân Văn Nhiếp, tuy có vài lời biện minh “quanh co”, nhưng vẫn thấy lỗi của mình và khích lệ: “Kẻ làm tôi thường cần phải nói, để vua nghe biết điều lỗi mới phải”.

(Nguồn : sách Đại Nam thực lục, tập Bảy, Nxb. Giáo dục, 2007, tr, 249, 1027, 1126)

Lời bàn:

Nửa sau thế kỷ XIX, trước yêu cầu chống thực dân phương Tây xâm lược, giữ vững nền độc lập dân tộc, hàng loạt quan lại, sĩ phu đã đề xuất lên vua Tự Đức và triều đình, yêu cầu mở cửa, canh tân đất nước. Đó là xu hướng chính để họ thể hiện tư tưởng yêu nước và con đường cứu nước. Bên cạnh đó, một số rất ít quan lại, có thể đếm trên đầu ngón tay, thể hiện tư tưởng và con đường trên đây bằng việc can gián vua, từ bỏ thói quen, lối sống không có lợi cho dân, cho nước, trong bối cảnh đất nước trăm bề rối ren bởi ngoại xâm, nội tình bên trong bất ổn. Đây là con đường dễ “nguy hiểm” cho bản thân. Điều này thể hiện không chỉ lòng yêu nước, thương dân, mà còn là khí phách kẻ sĩ trước thời cuộc của Thân Văn Nhiếp cùng số ít quan lại, sĩ phu cuối thế kỷ XIX.

Thạch Thiết Hà   


Tin mới

Hoạt động của UBKT trung ương

Tài liệu - Tư liệu