Bài học kinh nghiệm qua kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với Ban Thường vụ Thành ủy Lai Châu nhiệm kỳ 2015-2020
Thành phố Lai Châu (tỉnh Lai Châu) là thành phố trẻ, thuộc tỉnh miền núi, biên giới, có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống, được thành lập theo Nghị quyết số 131/NQ-CP, ngày 27/12/2013 của Chính phủ. Trong những năm qua, Ban Thường vụ Thành ủy Lai Châu đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết nhằm tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác quản lý đất đai, xây dựng đô thị. Việc triển khai thực hiện các dự án phát triển đô thị đạt được nhiều kết quả, từng bước hoàn thiện cơ sở hạ tầng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Lai Châu. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện Ban Thường vụ Thành ủy Lai Châu đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Quy chế làm việc của Thành ủy để UBND Thành phố và các cơ quan chức năng xảy ra nhiều vi phạm, khuyết điểm.
Thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng, UBKT Trung ương đã tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm cách cấp đối với Ban Thường vụ Thành ủy Lai Châu nhiệm kỳ 2015-2020 trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác quản lý, sử dụng đất và các dự án thuộc Chương trình phát triển đô thị giai đoạn 2015-2020 trên địa bàn thành phố Lai Châu. Qua kiểm tra, UBKT Trung ương nhận thấy Ban Thường vụ Thành ủy Lai Châu nhiệm kỳ 2015-2020 không cụ thể hóa các nội dung về công tác quản lý, sử dụng đất trong các Quy chế làm việc của Thành ủy nhiệm kỳ 2015-2020 để lãnh đạo, chỉ đạo; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, giám sát để UBND thành phố có nhiều vi phạm, khuyết điểm trong công tác quản lý, sử dụng đất và thực hiện các dự án phát triển đô thị, cụ thể:
* Vi phạm, khuyết điểm trong công tác quản lý, sử dụng đất
UBND thành phố chậm lập điều chỉnh Quy hoạch, Kế hoạch sử dụng đất đến năm 2020, do vậy từ tháng 01/2016-01/2019, UBND thành phố thực hiện các dự án có sử dụng đất khi điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất chưa được phê duyệt, dẫn tới việc cấp giấy phép xây dựng đối với các công trình trong đô thị; chuyển mục đích sử dụng đất, giao đất, quyết định đầu tư, bố trí giao đất tái định cư cho một số trường hợp không phù hợp với quy hoạch đô thị được duyệt; không kịp thời rà soát, thống kê, kiểm kê đất đai, báo cáo UBND tỉnh chỉ đạo việc thu hồi, bàn giao diện tích đất do doanh nghiệp nhà nước không sử dụng sau khi sắp xếp lại để quản lý, cắm mốc, lập hồ sơ địa chính, lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, tổ chức giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định. Một số vi phạm điển hình là:
- Trong giao đất ở cho cán bộ, công chức, viên chức: UBND thành phố giao đất ở, có thu tiền sử dụng đất không đúng đối tượng, không đủ điều kiện cho 598/655 hộ, tổng diện tích 64.465m2, tổng số tiền nộp ngân sách 57,49 tỷ đồng, nguy cơ thất thoát hơn 85 tỷ đồng. Đến thời điểm kiểm tra, có 378 hộ được giao đất ở đã chuyển nhượng, hậu quả khó khắc phục, trong khi rất nhiều hộ bị thu hồi đất đủ điều kiện giao đất tái định cư nhưng chưa được giao kịp thời do không còn quỹ đất.
- Trong giao đất dôi dư (đất ở) sau khi thực hiện các dự án có thu tiền sử dụng đất không thông qua đấu giá: UBND thành phố giao đất dôi dư có diện tích đủ điều kiện đất ở đô thị, không qua đấu giá quyền sử dụng đất cho 26 hộ, cá nhân, tổng diện tích hơn 5.000 m2, trị giá 5,72 tỷ đồng, nguy cơ thất thoát gần 30 tỷ đồng.
- Trong giao đất không thu tiền sử dụng đất: Giao đất nông nghiệp không đúng quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch sử dụng đất, không đúng đối tượng được giao đất cho 12 hộ, nguy cơ thất thoát hơn 4.000m2 đất.
- Trong chuyển mục đích sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, UBND thành phố ban hành 33 quyết định chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất ở đô thị và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, không có trong quy hoạch xây dựng đô thị được phê duyệt.
- Trong đấu giá quyền sử dụng đất: UBND thành phố trình UBND tỉnh ban hành Quyết định số 959/QĐ-UBND, ngày 17/8/2018 điều chỉnh phương án đấu giá quyền sử dụng đất không đúng với kế hoạch sử dụng đất (đất để đấu giá) được phê duyệt, nguy cơ giảm nguồn thu ngân sách 6,4 tỷ đồng; ban hành Quyết định số 1759/QĐ-UBND, ngày 05/11/2019 điều chỉnh phương án đấu giá quyền sử dụng đất được phê duyệt không đúng với kế hoạch sử dụng đất (đất để đấu giá), nguy cơ giảm nguồn thu ngân sách 1,4 tỷ đồng.
- Trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất: Thông báo thu hồi đất, đề nghị ứng vốn bồi thường giải phóng mặt bằng thực hiện dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngoài ngân sách khi chưa có Quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư tại 01 dự án; Quyết định thu hồi đất đối với 07 dự án, tổng diện tích đất thu hồi, mức vốn bồi thường giải phóng mặt bằng vượt Nghị quyết của HĐND tỉnh nhưng không báo cáo UBND tỉnh, HĐND tỉnh; Thông báo thu hồi đất không xác định rõ chủ sở hữu đất; ban hành quyết định thu hồi đất, quyết định bồi thường, hỗ trợ đối với các hộ gia đình không có trong thông báo thu hồi đất tại 04 dự án.
- Trong kiểm tra, kiểm đếm, xác nhận nguồn gốc đất: Lập, sử dụng hồ sơ bồi thường một số trường hợp không bảo đảm quy định; thời gian kiểm kê đất đai, tài sản trên đất bị thu hồi không phù hợp; bồi thường cả tài sản không nằm trên đất của hộ bị thu hồi đất (đất lưu không), bồi thường tài sản, vật kiến trúc cho hộ không bị thu hồi đất; Tờ khai về đất đai, tài sản, vật kiến trúc, cây trồng, vật nuôi trên đất của người có đất bị thu hồi được xác nhận trước thời điểm thông báo thu hồi đất; xác nhận nhân khẩu, hộ khẩu trước thời điểm xác lập Biên bản kiểm tra...
- Trong chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ: Không căn cứ quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ dự án; chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ trước khi phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tại 02 dự án; chậm chi trả bồi thường cho các hộ bị thu hồi đất tại 01 dự án.
- Trong xét, phê duyệt danh sách đủ điều kiện tái định cư, giao đất tái định cư: Ban hành các quyết định kiện toàn Hội đồng xét cấp đất tái định cư, quyết định ban hành Quy chế làm việc của Hội đồng xét cấp đất tái định cư, không được quy định trong Luật Đất đai 2013; không bố trí nguồn vốn để lập, xây dựng khu tái định cư trước khi thực hiện thu hồi đất; không chỉ đạo tổ chức xác định giá đất cụ thể để tính tiền bồi thường khi thu hồi đất và giá đất cụ thể để giao đất tái định cư cùng thời điểm quyết định thu hồi đất; không xác định giá đất cụ thể, quyết định trái thẩm quyền giá giao đất tái định cư cho 100 trường hợp (từ tháng 4/2016); phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ đối với 13/18 dự án không có phương án tái định cư; xét tái định cư, tổ chức bốc thăm tái định cư sau khi đã thực hiện thu hồi đất, chi trả bồi thường, hỗ trợ; không tổ chức bốc thăm đồng thời cho tất cả các hộ tại 13 dự án...
- Quyết định phê duyệt 30 suất đất tái định cư không đủ điều kiện, trái quy định với tổng diện tích hơn 3.300m2, nguy cơ thất thoát ngân sách nhà nước hơn 14,7 tỷ đồng.
Một số hộ có đất thu hồi lập giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất viết tay từ 01 người chuyển nhượng cho nhiều người trên cùng thửa đất, lùi thời gian để hợp thức hồ sơ, nhằm trục lợi chính sách hỗ trợ, tái định cư của Nhà nước; lập hợp đồng công chứng giả để trục lợi chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
* Vi phạm, khuyết điểm trong thực hiện Chương trình phát triển đô thị
UBND thành phố chưa lập, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng phù hợp với quy hoạch sử dụng đất; chưa phê duyệt quy hoạch phân khu và quy hoạch chi tiết đô thị đã được UBND tỉnh phê duyệt trong Chương trình phát triển đô thị giai đoạn 2017-2030 theo từng giai đoạn để thực hiện, vi phạm Mục b, Khoản 1 Điều 1 và Điểm 1, Phụ lục số 02 của Quyết định số 234/QĐ-UBND, ngày 12/3/2018 của UBND tỉnh. UBND Thành phố có nhiều vi phạm, khuyết điểm trong việc phê duyệt chủ trương đầu tư; lập, phê duyệt và điều chỉnh báo cáo kinh tế kỹ thuật; lập, thẩm định, phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu, tổ chức lựa chọn nhà thầu; ký kết và thực hiện hợp đồng, nghiệm thu, thanh quyết toán tại một số dự án/gói thầu dẫn đến nguy cơ thất thoát ngân sách tại 08 dự án số tiền 10,6 tỷ đồng, nguy cơ lãng phí ngân sách tại 05 dự án số tiền 1,6 tỷ đồng.
Đối với Dự án Khu Lâm viên thành phố sử dụng nguồn vốn đầu tư từ nguồn thưởng công trình phúc lợi không đúng quy định, làm giảm nguồn lực đầu tư cho các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới 30 tỷ đồng, vi phạm Nghị quyết số 100/2015/QH13, ngày 12/11/2015 của Quốc hội khóa 13; Quyết định số 2001/QĐ-TTg, ngày 20/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ.
Trong quá trình kiểm tra, Ban Thường vụ Thành ủy nhiệm kỳ 2020-2025 đã chỉ đạo khắc phục, thu hồi hơn 10 tỷ đồng; các hộ dân đã tự nguyện khắc phục 1,765 tỷ đồng.
Như vậy, Ban Thường vụ Thành ủy Lai Châu nhiệm kỳ 2015-2020 đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Quy chế làm việc; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu kiểm tra, giám sát để nhiều tổ chức đảng, đảng viên có nhiều vi phạm, khuyết điểm trong công tác quản lý, sử dụng đất, thực hiện các dự án phát triển đô thị, chậm được phát hiện, gây hậu quả nghiêm trọng, nguy cơ thất thoát ngân sách 143,916 tỷ đồng; 4.234,1m2 đất nông nghiệp, lãng phí 1,623 tỷ đồng, giảm nguồn thu 7,8 tỷ đồng, dư luận bức xúc, làm giảm uy tín của tổ chức đảng và cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương.
Liên quan đến vi phạm khuyết điểm của Ban Thường vụ Thành ủy nhiệm kỳ 2020-2025 còn có vi phạm, khuyết điểm và trách nhiệm của Ban Thường vụ Thành ủy nhiệm kỳ 2010-2015, Ban cán sự đảng UBND tỉnh nhiệm kỳ 2011-2016, 2016-2021; Đảng đoàn HĐND tỉnh nhiệm kỳ 2011-2016, 2016-2021; Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lai Châu nhiệm kỳ 2010-2015, 2015-2020 và đảng ủy, chi bộ các sở, ngành, ban thường vụ đảng ủy các xã, phường có liên quan.
Căn cứ tính chất, mức độ, hậu quả, nguyên nhân vi phạm và kết quả xem xét, đề nghị thi hành kỷ luật; căn cứ Quy định số 69-QĐ/TW, ngày 06/7/2022 của Bộ Chính trị về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm; áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định; UBKT Trung ương đã quyết định thi hành kỷ luật cảnh cáo đối với Ban Thường vụ Thành ủy Lai Châu nhiệm kỳ 2015 - 2020 và 06 đồng chí là lãnh đạo, nguyên lãnh đạo chủ chốt của Thành ủy; không kỷ luật đối với 11 tổ chức đảng và 52 đảng viên; giao Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lai Châu ban hành các quyết định thi hành kỷ luật đối với 07 tổ chức đảng và 19 đảng viên.
Những vi phạm của Ban Thường vụ Thành ủy Lai Châu nhiệm kỳ 2015-2020 đã để lại hậu quả nghiêm trọng, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều tổ chức đảng, đảng viên bị thi hành kỷ luật. Để khắc phục tình trạng trên các cấp ủy, tổ chức đảng phải coi đây là bài học chung cần rút ra để quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện:
Một là, cấp ủy các cấp phải kịp thời ban hành Quy chế làm việc theo đúng quy định của Đảng, phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương; thường xuyên rà soát để kịp thời sửa đổi, bổ sung, cụ thể hóa các nội dung quan trọng đưa vào Quy chế làm việc cho phù hợp với thực tiễn khi triển khai thực hiện.
Hai là, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ và Quy chế làm việc trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ, phải quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức, cá nhân và nguyên tắc, chế độ làm việc để thực hiện có hiệu quả, tránh lạm quyền, vượt thẩm quyền.
Ba là, lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định, quy trình, thủ tục liên quan đến công tác quản lý đất đai, đầu tư, xây dựng, mua sắm, quản lý tài sản theo thẩm quyền; cập nhật các văn bản, quy định mới có hiệu lực để thực hiện, khắc phục, phòng ngừa lỗi sai, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính bảo đảm công khai, minh bạch, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Bốn là, đối với công tác quản lý, sử dụng đất cần tập trung chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo từng giai đoạn để tổ chức thực hiện; kịp thời rà soát, thống kê, kiểm kê đất đai sau khi thu hồi, nhận bàn giao diện tích đất trên địa bàn do các doanh nghiệp nhà nước không sử dụng sau khi có quyết định sắp xếp lại, để quản lý, cắm mốc, lập hồ sơ địa chính, lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, tổ chức giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.
Việc giao đất có thu tiền sử dụng đất cần có quy định cụ thể, chi tiết để xác định đúng đối tượng đủ điều kiện giao đất; xác định cụ thể các thưa đất “dôi dư” sau khi thực hiện các dự án để có phương án đấu giá theo quy định, tăng thu ngân sách cho Nhà nước; thực hiện tốt công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất, xác định cụ thể các trường hợp phải di chuyển chỗ ở (nếu có) để lập và thực hiện dự án tái định cư trước khi thu hồi đất; thực hiện kiểm tra, kiểm đếm, xác nhận nguồn gốc đất đúng quy định; phê duyệt phương án bồi thường về đất ở, chính sách hỗ trợ đúng đối tượng, đủ điều kiện; thường xuyên rà soát, kiện toàn Hội đồng xét cấp đất tái định cư, ban hành Quy chế làm việc của Hội đồng xét cấp đất tái định cư theo quy định của Luật Đất đai.
Năm là, lãnh đạo, chỉ đạo việc triển khai thực hiện các dự án đầu tư ngay từ khi thực hiện các bước chuẩn bị đầu tư; thực hiện nghiêm quy trình đấu thầu, lựa chọn nhà thầu đối với từng hình thức lựa chọn nhà thầu; thương thảo, ký kết hợp đồng cụ thể theo nội dung hồ sơ mời thầu và tuyên bố đáp ứng của nhà thầu, tránh việc điều chỉnh dự án không đúng quy định; giám sát, đánh giá dự án, lập hồ sơ thanh quyết toán, kiểm toán đúng quy định.
Sáu là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, tập trung vào các lĩnh vực nhạy cảm, dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực như: Đất đai, đầu tư, xây dựng, đấu thầu, công tác cán bộ... để làm tốt công tác phòng ngừa, chủ động phát hiện sớm, kịp thời nhắc nhở tổ chức đảng và đảng viên sửa chữa, khắc phục, không để vi phạm nhỏ trở thành sai phạm lớn, góp phần thực hiện tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay./.
Khuất Hữu Dực
Phó Vụ trưởng Vụ Địa bàn II, Cơ quan UBKT Trung ương