A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Quyền lực thực sự của hệ thống chính trị nước ta phải thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân

Một trong những nội dung quan trọng được Giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư của Đảng đề cập trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” là vấn đề quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Điều này được thể hiện rõ ở đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và được vận thông trong đời sống xã hội.

       Về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hiện nay ở Việt Nam, Tổng Bí thư nêu rõ: “Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân… Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội”. Quyền lực của hệ thống chính trị nước ta thực chất thuộc về ai? Tổng Bí thư xác định:  “… chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có.”

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, các thế lực phản động, thù địch hay bóp méo hoặc tấn công trực diện vào sự lãnh đạo của Đảng. Chúng cho rằng, quyền lực đang khống chế xã hội, thuộc về “độc đảng” - Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng phân chia quyền lực cho hệ thống chính trị mà họ dựng lên để thực hiện đường lối “độc tài” của mình… ở đó tầng lớp “bị trị” là nhân dân! Thực tế quyền lực mà hệ thống chính trị đang vận hành đất nước Việt Nam hiện nay thuộc về ai?

Phải khẳng định rằng, kể từ khi tìm thấy ánh sáng cho con đường giải phóng dân tộc từ chủ nghĩa Mác Lê Nin, từ thực tiễn Cách mạng Tháng mười Nga, người Việt Nam yêu nước Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh rồi Đảng Cộng sản Việt Nam và cả dân tộc ta đã nhận thức đúng và dứt khoát lựa chọn con đường cách mạng phải thuộc về nhân dân: Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người - đó là cuộc cách mạng của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân mà quyền lực thuộc về nhân dân chứ không phải bất kỳ giai cấp, thế lực nào khác. 

 Chúng tôi phân tích và minh chứng quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập trong bài viết của mình. 

Một là, cần nhận rõ những khái niệm được đề cập trong bài viết của Tổng Bí thư

 - Nhân dân Việt Nam mà Tổng Bí thư nhân danh bao gồm toàn thể đồng bào của nước Việt Nam thống nhất, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, vị thế xã hội, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo... mà nòng cốt là giai cấp công nhân, giai nông dân và tầng lớp trí thức, cùng đoàn kết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như vậy, Nhân dân Việt Nam là tập hợp 54 dân tộc thuộc mọi giai cấp, tầng lớp, thành phần xã hội, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng đang sống trên lãnh thổ Việt Nam và cộng đồng người Việt đang sinh sống, học tập, công tác ở nước ngoài - một sự thật, một thực tế sống động trong thực tiễn, không ngụy xưng!

 - Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp hiến, hợp pháp của xã hội ta, được nhân dân tự nguyện ủy thác những quyền lực cụ thể, bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp khác được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam. Các thành tố này liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức, nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội; củng cố, xây dựng và phát triển chế độ xã hội chủ nghĩa phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của Nhân dân. Điều này hoàn toàn đảm bảo Nhân dân là chủ thể thực sự của quyền lực, tự mình tổ chức và quản lý xã hội, quyết định nội dung hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị của nước ta không đứng trên xã hội, không tách khỏi xã hội, mà là một bộ phận của xã hội, gắn bó với xã hội. Cầu nối quan trọng giữa hệ thống chính trị với xã hội chính là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Đó cũng là một sự thật! Hệ thống này không tiếm quyền, đoạt quyền của Nhân dân như luận liệu của các thế lực thù địch, chống phá!

- Quyền lực thuộc về nhân dân, về nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” gắn liền với việc khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ” xác định rõ chủ thể thật sự, chủ thể đích thực và chủ thể tối cao của nhà nước, của tất cả quyền lực nhà nước là Nhân dân. Điều này được thể hiện thống nhất từ đường lối của Đảng cầm quyền, Hiến pháp và hệ thống pháp luật của nhà nước đến nhận thức và hành động của Nhân dân. Trong thực tế quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Dù do bất cứ cơ quan, cá nhân nào được phân định nắm giữ (dù là quyền hành pháp, quyền tư pháp hay bất cứ cơ quan nhà nước nào khác) cũng là thực thi nhiệm vụ do sự trao quyền, ủy quyền một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ Nhân dân. Tính chất đó đòi hỏi hệ thống chính trị, bất luận là thành tố nào  đều phải tuân thủ nguyên tắc: Quyền lực thuộc về Nhân dân, mang lại lợi ích cho Nhân dân.

Hai là, quan điểm quyền lực thuộc về nhân dân bắt nguồn từ đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam

Trong hành trình đi tìm lời giải cho bài toán cách mạng Việt Nam, sau khi tìm hiểu, so sánh các cuộc cách mạng đã diễn ra trong lịch sử thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định lựa chọn con đường giải phóng dân tộc đi theo Cách mạng Tháng Mười Nga và mô hình Nhà nước Xô Viết để từng bước xác lập một kiểu nhà nước tương lai - Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân - quyền lực thuộc về nhân dân.

Đường lối cách mạng Việt Nam được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định ngay từ khi thành lập và xuyên suốt hành trình 92 năm qua. Với những hình thức và tên gọi khác nhau, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã năm lần ban hành cương lĩnh hoặc những văn bản có tính cương lĩnh đều giữ vững quan điểm: Quyền lực thuộc về nhân dân. 

Chánh cương vắn tắt ở Hội nghị thành lập Đảng (2-1930) khẳng định: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng”, “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra chính phủ công - nông binh, tổ chức ra quân đội công nông”, “để đi tới xã hội cộng sản”.

Luận cương chính trị (10-1930) tiếp tục khẳng định “làm tư sản dân quyền, trong đó hai mặt tranh đấu đánh đổ các di tích phong kiến để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để và tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập liên lạc mật thiết với nhau”.

 Chính cương Đảng Lao động Việt Nam (2-1951) do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh chỉ đạo soạn thảo và được Ðại hội II của Ðảng (tháng 2 năm 1951) thảo luận, thông qua. Chính cương khẳng định: “Cách mạng Việt Nam hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội”, “xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân dựa vào Mặt trận dân tộc thống nhất trên cơ sở liên minh công nhân, nông dân, trí thức do giai cấp công nhân lãnh đạo”.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII thông qua (6-1991). Trong bối cảnh mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội kiểu cũ mà chính quyền thuộc về nhân dân bị sụp đổ tại trung tâm của hệ thống xã hội chủ nghĩa, là một quốc gia chưa phát triển, lại vừa trải qua 30 năm chiến tranh, bị bao vây cấm vận, Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh đề ra cương lĩnh xây dựng đất nước trong điều kiện hòa bình. Cương lĩnh vẫn kiên định xây dựng đất nước: “Do nhân dân lao động làm chủ”, “Về chế độ chính trị, đó là chế độ do nhân dân lao động làm chủ”.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được Đại hội XI của Đảng thông qua. Cương lĩnh được xây dựng trên cơ sở tổng kết quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng qua 20 năm  thực hiện Cương lĩnh năm 1991 và 25 năm công cuộc đổi mới, cần dự báo xu thế phát triển của thế giới, của đất nước, đề ra mục tiêu, phương hướng và những định hướng lớn phát triển đất nước trong thập niên thứ hai, với tầm nhìn đến giữa thế kỷ  XXI.  Một lần nữa Đảng ta khẳng định: “Xây dựng một nhà nước của Dân, do Dân, vì Dân, quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”.

Cụ thể hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đại hội XIII của Đảng (1-2021) khẳng định: Chúng ta cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn: giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ…”, “dân là gốc”, “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước”. 

Cần nói rõ ràng, Điều lệ Đảng quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”, cho nên Đảng “… tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng.

Như vậy, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước, đổi mới, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Đảng ta khẳng định một cách dứt khoát, kiên định, xuyên suốt trong đường lối của mình: Quyền lực thực sự của hệ thống chính trị nước ta thuộc về Nhân dân, do Nhân dân và phục vụ lợi ích Nhân dân.

Ba là, tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân thể hiện ở Hiến pháp

Vấn đề căn bản - tính giai cấp, tính cách mạng của các cuộc cách mạng xã hội là chính quyền thuộc về ai và phục vụ ai?  Hiến pháp là đạo luật cao nhất của hệ thống pháp luật quy định những nguyên tắc chính trị căn bản, thiết lập thủ tục, quyền hạn, trách nhiệm của một chính quyền và quy định những nghĩa vụ, quyền cơ bản của công dân.

Kể từ khi lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến nay, nước ta đã có 05 bản Hiến pháp (Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001), Hiến pháp năm 2013). Ra đời trong bối cảnh và ở những thời điểm lịch sử nhất định nhằm thể chế hóa đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam cho mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, cả 05 bản Hiến pháp đều xác định rõ chủ thể của đất nước.

Hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp năm 1946 đặt nền móng cho việc xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân, đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến, vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Trong điều kiện trứng nước, thù trong giặc ngoài, khó khăn chồng chất nhưng ngay trong Lời nói đầu Hiến pháp đã ghi: Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.”, Chương I - Chính thể, Điều 1 khẳng định: Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.

Hiến pháp năm 1959 - Hiến pháp của thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam, thống nhất đất nước. Lời nói đầu Hiến pháp đã ghi: Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Chương I - Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Điều 4 quy định: Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Điều 6 ghi rõ: “Tất cả các cơ quan Nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân”.

Hiến pháp năm 1980 - Hiến pháp của kỷ nguyên thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Ngay Lời nói đầu đã xác định: Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ và Nhà nước quản lý trong xã hội Việt Nam”. Điều 3, Chương I ghi: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, người chủ tập thể là nhân dân lao động bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa và những người lao động khác, mà nòng cốt là liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Nhà nước bảo đảm không ngừng hoàn chỉnh và củng cố chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội; làm chủ trong phạm vi cả nước, từng địa phương, từng cơ sở; làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân”.

Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới đất nước, hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều 2 Hiến pháp khẳng định: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Điều 6 chỉ rõ: “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”.

Hiến pháp năm 2013 - Hiến pháp của thời kỳ đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới, đồng bộ cả về kinh tế, chính trị, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phát triển và hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới. Điều 2 Hiến pháp quy định: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Như vậy, dù là giai đoạn nào, khó khăn, phức tạp đến đâu, Hiến pháp vẫn quy định Nhân dân là chủ thể của nhà nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Đồng thời, với những cách biểu đạt khác nhau Hiến pháp đều quy định phương cách Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước của mình: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của nhà nước” (Điều 6 Hiến pháp 2013).

Bốn là, quyền lực thuộc về nhân dân thể hiện trong thực tiễn đời sống xã hội

 Trong thực tế từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay, Nhân dân Việt Nam thực hiện quyền lực của mình đối với hệ thống chính trị của đất nước bằng hai hình thức: Dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. 

Dân chủ trực tiếp là Nhân dân tự mình thực hiện quyền lực nhà nước, Nhân dân tự mình thể hiện ý chí của mình (với tư cách là chủ thể quyền lực nhà nước) về một vấn đề/sự việc nào đó liên quan đến quốc gia, dân tộc, đất nước mà không cần ủy quyền cho cá nhân hay tổ chức thay mặt mình, và ý chí đó có tính bắt buộc phải thi hành. Hình thức biểu hiện cụ thể của dân chủ trực tiếp như ứng cử, bầu cử Quốc hội, hội đồng nhân dân, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, trưng cầu dân ý...

      Thực tế từ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến nay Nhân dân ta đã 15 lần tự do thực hiện quyền dân chủ trực tiếp với hình thức bầu cử Quốc hội: Lần thứ nhất - bầu Quốc hội khóa I (1946 - 1960), ngày  6/01/1946, với tỷ lệ 89% cử tri bỏ phiếu, bầu 333 đại biểu. Lần thứ hai - bầu Quốc hội khóa II (1960 - 1964), ngày 8/5/1960, với tỷ lệ 97,52% cử tri bỏ phiếu, bầu 453 đại biểu. Lần thứ ba - bầu Quốc hội khóa III (1964 - 1971), ngày 26/4/1964, với tỷ lệ 97,77% cử tri bỏ phiếu, bầu455 đại biểu. Lần thứ tư - bầu Quốc hội khóa IV (1971 - 1975), ngày 11/4/1971, với tỷ lệ 98,88% cử tri bỏ phiếu, bầu 420 đại biểu. Lần thứ năm - bầu Quốc hội khóa V (1975 - 1976), ngày 6/4/1975, với tỷ lệ 98,26% cử tri bỏ phiếu, bầu 424 đại biểu. Lần thứ sáu - bầu Quốc hội khóa VI (1976 - 1981) là quốc hội đầu tiên của cả nước thống nhất, ngày 25/4/1976, với tỷ lệ 98,77% cử tri bỏ phiếu, bầu 492 đại biểu. Lần thứ bảy - bầu Quốc hội khóa VII (1981 - 1987), ngày 26/4/1981, với tỷ lệ 97,96% cử tri bỏ phiếu, bầu 496 đại biểu. Lần thứ tám - bầu Quốc hội khóa VIII (1987 - 1992), ngày 19/4/1987, với tỷ lệ 98,75% cử tri bỏ phiếu, bầu 496 đại biểu. Lần thứ chín - bầu Quốc hội khóa IX (1992 - 1997), ngày 19/7/1992, với tỷ lệ 99,12% cử tri bỏ phiếu, bầu 395 đại biểu. Lần thứ mười - bầu Quốc hội khóa X (1997 - 2002), ngày 20/7/1997, tỷ lệ 99,59% cử tri bỏ phiếu, bầu 450 đại biểu. Lần thứ mười một - bầu Quốc hội khóa XI (2002 - 2007), ngày 19/5/2002, tỷ lệ 99,73% cử tri bỏ phiếu, bầu 498 đại biểu. Lần thứ mười hai - bầu Quốc hội khóa XII (2007 - 2011), ngày 20/5/2007, tỷ lệ 99,64% cử tri bỏ phiếu, bầu 493 đại biểu. Lần thứ mười ba - bầu Quốc hội khóa XIII (2011 - 2016), ngày 22/5/2011, tỷ lệ 99,51% cử tri bỏ phiếu, bầu 500 đại biểu. Lần thứ mười bốn - bầu Quốc hội khóa XIV (2016 - 2021), ngày 22/5/2016, tỷ lệ 98,77% cử tri bỏ phiếu, bầu 496 đại biểu. Lần thứ mười lăm - bầu Quốc hội khóa XV (2021 - 2026), ngày 23/5/2021, tỷ lệ 99,60% cử tri bỏ phiếu, bầu 499 đại biểu.

       Có thể thấy, xuyên suốt 15 kỳ bầu cử Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp ở Việt Nam đều là ngày hội của cử tri cả nước tự do thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của mình với một tỷ lệ cử tri tham gia rất cao mà không bị lệ thuộc vào bất cứ áp lực nào! 

Dân chủ đại diện là hình thức Nhân dân thông qua các cơ quan nhà nước, các cá nhân được Nhân dân ủy quyền để thực hiện ý chí của Nhân dân. Ở nước ta, dân chủ đại diện là phương thức chủ yếu để thực hiện quyền lực Nhân dân. Nhân dân quản lý mọi mặt đời sống xã hội qua trung gian là người đại diện.Theo trình tự,  Nhân dân bầu ra các cơ quan đại biểu cho mình theo hình thức phổ thông đầu phiếu và ủy thác quyền lực cho các cơ quan đại biểu đó như Quốc hội, hội đồng Nhân dân các cấp. Trên cơ sở đó, Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp tiếp tục lập ra các cơ quan khác của Nhà nước để thực hiện ý chí, nguyện vọng của Nhân dân. 

Trong thực tế ở Việt Nam, 77 năm qua, với 15 kỳ bầu cử trực tiếp đều đảm bảo quyền lực  nhà nước thuộc về Nhân dân, bao gồm cả quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.Nhân dân lập ra và trao quyền cho các cơ quan nhà nước để thay mặt mình thực hiện quyền lực của mình. Các cơ quan này chịu sự giám sát của Nhân dân và chỉ thực hiện quyền lực trong giới hạn cho phép. Như vậy, cơ quan được Nhân dân ủy quyền không chỉ là cơ quan dân cử mà bao gồm cả cơ quan hành pháp và tư pháp. Khi hoạt động các cơ quan này với tư cách là Nhân dân, đại diện Nhân dân để thực thi nhiệm vụ. Trong đời sống xã hội,các cơ quan nhà nước kể cả lập pháp, hành pháp và tư pháp luôn nhận thức rằng, quyền mà mình có là do Nhân dân trao, ủy thác. Không có thứ quyền lực nhà nước nào có nguồn gốc tự thân, nằm ngoài sự trao quyền, ủy quyền của Nhân dân. Vì thế, không chỉ Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp lắng nghe ý kiến nhân dân khi ban hành luật, nghị quyết, mà các cơ quan hành pháp, tư pháp cũng phải thu thập, lắng nghe ý kiến nhân dân trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình.

  Rõ ràng, quyền lực của hệ thống chính trị ở nước ta từ đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của đất nước đến thực tế đời sống xã hội đều thống nhất thuộc về Nhân dân. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:

“Nước ta là nước dân chủ,

Bao nhiêu lợi ích đều là vì dân,

Công việc đổi mới và xây dựng là trách nhiệm của dân,

Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra,

Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên,

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.

   -------------------------

PGS, TS Đoàn Thế Hanh, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh  


Tin mới

Hoạt động của UBKT trung ương

Tài liệu - Tư liệu